Thời kỳ 1977-2005 - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam

   Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, từ nhận thức về vai trò then chốt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, công tác nghiên cứu khoa học nông nghiệp đã được Chính phủ tổ chức lại thành một hệ thống trong phạm vi cả nước.

   Ngày 08/10/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 275-CP về tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp. Theo đó, thành lập các tổ chức về nghiên cứu khoa học kỹ thuật, về kinh tế và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân nông nghiệp trong đó có Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (Viện KHKTNNVN) như một Viện đầu ngành về nghiên cứu cơ bản và tổng hợp trong nông nghiệp, đào tạo cán bộ có trình độ cao cho ngành nông nghiệp.

   Ngày 29/12/1977, Bộ Nông nghiệp ra Quyết định số 410 TCCB/QĐ về việc thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp.

   Tại Quyết định số 101 TCCB/QĐ ngày 03/4/1978 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, quy định chức năng của Viện KHKTNNVN “...là cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật nông nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp, có trách nhiệm giúp Bộ nghiên cứu những vấn đề khoa học phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và quản lý công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật nông nghiệp của ngành, vừa là cơ quan chủ về các mặt quản lý đối với các đơn vị trực thuộc Viện, vừa là cơ quan quản lý thống nhất về mặt nghiên cứu khoa học kỹ thuật nông nghiệp của toàn ngành”.

Lịch sử hình thành và phát triển VAASLịch sử hình thành và phát triển VAAS

Quyết định thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam

   Theo Quyết định số 101, hệ thống tổ chức và bộ máy giúp việc của Viện gồm có:

- 10 bộ môn nghiên cứu cơ bản: Thực vật nông nghiệp; Di truyền chọn giống cây trồng; Di truyền và chọn giống gia súc; Sinh lý thực vật nông nghiệp; Sinh lý và dinh dưỡng động vật nông nghiệp; Hóa sinh và chất lượng nông sản; Sinh thái khí tượng và canh tác học; Thuỷ nông học; Miễn dịch học; và Vi sinh vật.

- Các tổ chức hậu cần cho khoa học và đào tạo gồm có các phòng: Toán sinh học và máy tính; Phân tích hóa sinh; Thông tin xuất bản, thư viện; Kế hoạch khoa học và đào tạo; và Trạm vật tư hóa chất và nghi khí thí nghiệm.

- Vụ quản lý tổng hợp làm nhiệm vụ tổ chức phục vụ và quản lý, gồm các phòng: Xây dựng cơ bản; Tổ chức cán bộ và Lao động tiền lương; Hành chính quản trị; Kế toán tài vụ; và Trạm Y tế.

- Đơn vị nghiên cứu trực thuộc Viện KHKTNNVN gồm các viện chuyên đề, chuyên ngành, các viện/trung tâm nghiên cứu theo vùng, các trại thí nghiệm như sau: Viện Thổ nhưỡng Nông hóa; Viện Bảo vệ thực vật; Viện Thú y; Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm; Viện Cây công nghiệp, Cây ăn quả và Cây làm thuốc; Viện Chăn nuôi; Viện Kỹ thuật Nông nghiệp miền Đông Nam Bộ; Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long; Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Eakmat; Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam Trung Bộ; Trại vùng Bắc Trung Bộ và Trại Văn Điển (thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp cũ).

   Trong mô hình hệ thống nghiên cứu này, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam lúc bấy giờ được gọi nôm na là “Viện Mẹ” và các viện trực thuộc là “Viện Con”.

   Trong thời gian này, Viện KHKTNNVN đã triển khai các đề tài nghiên cứu ở các vùng sinh thái khác nhau từ Trung du Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, đến Duyên hải Trung Bộ. Trên quan điểm hệ thống, đồng thời áp dụng tổng hợp các tiến bộ kỹ thuật, Viện đã giúp nông dân sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, tăng thu nhập và bảo vệ môi trường. Đặc biệt với các địa bàn miền núi đất dốc, phụ thuộc nước trời, Viện đã triển khai nghiên cứu nông - lâm kết hợp và đã đề xuất được những giải pháp phát triển nông lâm nghiệp một cách bền vững.

   Nghiên cứu chuyển vụ, tăng vụ, tăng diện tích gieo trồng và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp đã được Viện tập trung nghiên cứu. Hướng nghiên cứu này đã được đặt ra từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX và kết quả nghiên cứu nổi bật có tính lịch sử là đưa vụ lúa Xuân thành vụ sản xuất chính. Đến giai đoạn này, hướng nghiên cứu trên vẫn được tăng cường trên cơ sở khoa học và thực tiễn cao hơn, góp phần làm cho vụ lúa Xuân đạt gần 50% sản lượng lúa toàn quốc.

   Trong công tác chọn giống, Viện đã chọn tạo hàng trăm giống cây trồng mới năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu được các điều kiện bất thuận. Điển hình là các giống lúa: C22, X21, NR11, Xi23, BM9603, BM9855, AYT77, Nếp 97, lúa lai HYT57 và HYT100; giống đậu tương: AK03, AK06, VX9-3, ĐT200; giống lạc: Sen lai 75-23, MD7, L14; đậu xanh KP11; vừng V6...

   Viện đã tổng kết kinh nghiệm của các hợp tác xã ở Hải Phòng đi đầu trong cải cách kinh tế, tham gia vào việc chuẩn bị Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (Khóa IV, tháng 1-1981) về “Mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong HTX nông nghiệp” và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (Khóa VI, tháng 4-1988) về “Khoán hộ trong nông nghiệp”. Viện đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển của kinh tế hộ nông dân, tổ chức nông dân và hợp tác xã kiểu mới; nghiên cứu quan hệ ngành hàng, cơ sở lý luận của việc chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, phát triển ngành nghề nông thôn, cụm công nghiệp làng nghề,... góp phần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.

   Viện chú trọng đến các hướng nghiên cứu cơ bản như sinh lý, sinh hoá, công nghệ sinh học, di truyền miễn dịch... của một số cây trồng chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cải tiến giống, xác lập các giải pháp và quy trình công nghệ thâm canh tăng năng suất. Viện đã thu thập và xây dựng ngân hàng gen cây trồng với 9.200 mẫu giống của 76 loài cây trồng, đã phối hợp với 15 cơ quan trong và ngoài nước để bảo quản tại chỗ (in-situ) 3.500 mẫu giống và ngân hàng gen vi sinh vật nông nghiệp với 450 chủng.

   Viện đã chủ động nắm bắt và làm chủ công nghệ sản xuất hạt lai F1 của lúa và sản xuất khoai tây bằng hạt để tiến tới tự sản xuất ở trong nước, giảm dần nhập khẩu.

   Cùng với việc phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao TBKT cho sản xuất, Viện còn tham gia đào tạo cán bộ sau đại học với hơn 300 tiến sĩ, 450 thạc sĩ nông nghiệp đã tốt nghiệp, trong đó có một số người nước ngoài. Nhiều tiến sĩ và thạc sĩ do Viện đào tạo đã trở thành những nhà khoa học tài năng, được giao nhiệm vụ trọng trách trong các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, quản lý và chỉ đạo sản xuất trong cả nước.

   Với tư cách là một Viện Quốc gia, Viện có quan hệ hợp tác với hầu hết các viện nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới, một số nhà khoa học đầu đàn là thành viên các tổ chức nghiên cứu khoa học quốc tế. Nhiều cán bộ giỏi đã được cử làm chuyên gia nông nghiệp giúp các nước bạn Cuba, Lào, Senegan, Benanh, Mozambique, Angola, Iraq...

   Theo Quyết định số 101 TCCB/QĐ, Viện KHKTNNVN được thành lập có các đơn vị trực thuộc là các viện chuyên đề và chuyên ngành, các trung tâm nghiên cứu (lúc đó đang trực thuộc Bộ), nhưng trên thực tế các đơn vị này vẫn duy trì hoạt động độc lập với Viện KHKTNN Việt Nam và vẫn giữ như một đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp. Sau đó, Chính phủ tiếp tục thành lập một số viện nghiên cứu mới trực thuộc Bộ. Có thể nói, Quyết định này đã không được triển khai.

   Viện Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được thành lập theo Quyết định số 365 TCCB/QĐ ngày 17 tháng 8 năm 1981 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trên cơ sở hợp nhất cơ sở II của Viện KHKTNNVN ở phía Nam và Viện Kỹ thuật Nông nghiệp miền Đông Nam Bộ; Đến đầu năm 1990, Viện được đổi tên thành Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam và tháng 5 năm 1998, Viện mang tên Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (Quyết định số 76/1998/QĐ/BNN-TCCB ngày 27 tháng 5 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và CNTP).

   Viện Nghiên cứu Cà phê trực thuộc Liên hiệp Các xí nghiệp Cà phê Việt Nam thành lập theo Quyết định số 139 NN-TC/QĐ ngày 06 tháng 5 năm 1983 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Nghiên cứu Cà phê Ca cao.

   Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long thành lập theo Quyết định số 24-CT ngày 09 tháng 01 năm 1985 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long.

   Viện Nghiên cứu Chè được thành lập theo Quyết định số 88 NN-TCCB/QĐ ngày 04 tháng 3 năm 1988 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và CNTP trên cơ sở hợp nhất Viện Nghiên cứu Chè (thuộc Liên hiệp Các xí nghiệp công nông nghiệp Chè Việt Nam) và Viện Nghiên cứu Cây công nghiệp và Cây ăn quả (Bộ Nông nghiệp và CNTP).

   Tháng 5 năm 1988, Trung tâm Nghiên cứu Ngô Sông Bôi chuyển thành Viện Nghiên cứu Ngô theo Quyết định số 168-CT ngày 30/5/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).

   Tháng 10 năm 1989 Viện Di truyền Nông nghiệp được thành lập theo Quyết định số 281-CT ngày 10/10/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

   Viện Nghiên cứu Rau Quả được thành lập theo Quyết định số 71-NN-TCCB/QĐ ngày 3/3/1990 của Bộ Nông nghiệp và CNTP trực thuộc Tổng Công ty Rau Quả Việt Nam; Năm 2000 Viện chuyển về trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT theo Quyết định số 71/2000/QĐ/BNN-TCCB ngày 04/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT.

   Năm 1997, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (Quyết định số 930/1997/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 1997) trên cơ sở tổ chức lại Viện Nghiên cứu Cà phê, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm Dâu tằm tơ Bảo Lộc và một số bộ phận của các cơ quan nghiên cứu khoa học thuộc Bộ có liên quan tại vùng Tây Nguyên. Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam được thành lập theo Quyết định số 106/1997/QĐ-TTg, ngày 09/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ.Như vậy, vào thời điểm năm 2000, hệ thống nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam có 32 viện và trung tâm nghiên cứu, trong đó có 24 viện/trung tâm trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các đơn vị còn lại trực thuộc các tổng công ty trong và ngoài Bộ. Việc tổ chức lại hệ thống này được đặt ra như một yêu cầu có tính cấp thiết của ngành nông nghiệp

Lịch sử hình thành và phát triển VAAS

Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu thăm mô hình sản xuất lúa của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam

 

Lịch sử hình thành và phát triển VAAS

Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, năm 1994

 

Lịch sử hình thành và phát triển VAAS

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm

 

Tin liên quan