Những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ số có đóng góp quan trọng tạo diện mạo mới trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, việc ứng dụng công nghệ số còn giúp nhiều loại nông sản của tỉnh tiếp cận với thị trường nhanh hơn, xa hơn, nhất là các sản phẩm trồng trọt được sản xuất theo quy trình an toàn.

Thành viên HTX trà an toàn Phú Đô (Phú Lương) chụp ảnh minh chứng về quy trình sản xuất chè an toàn, ứng dụng phần mềm nhật ký sản xuất điện tử FaceFarm trong quá trình chăm sóc, thu hái, chế biến chè. Ảnh: Việt Dũng
Nâng cao hiệu quả quản lý
Một trong những đơn vị mạnh dạn chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thời gian qua là Hợp tác xã (HTX) trà an toàn Phú Đô (Phú Lương). Trong vai trò là Giám đốc HTX, anh Hoàng Văn Tuấn (32 tuổi, ở xóm Phú Thọ) đã vận động 7 thành viên HTX và 32 hộ liên kết sản xuất chè theo quy trình an toàn, với diện tích trên 15ha. Đến nay, HTX đã có trên 10ha chè được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, với sản lượng chè búp tươi đạt khoảng 150 tấn/năm.
Nhằm nâng cao năng lực quản lý, năm 2023, anh Tuấn đã tìm hiểu và ứng dụng phần mềm nhật ký sản xuất điện tử FaceFarm trong quá trình chăm sóc, thu hái và chế biến chè. Phần mềm FaceFarm sử dụng thuật toán đám mây và có chức năng quản lý thực địa nơi sản xuất bằng hình ảnh và ứng dụng bản đồ Google Maps, giúp người dùng theo dõi nông trại và ghi chép nhật ký sản xuất mọi lúc, mọi nơi, kể cả ngay tại nhà hay trên đồng ruộng...
Chỉ cần có điện thoại hay máy tính kết nối internet, người dùng có thể ghi chép nhật ký sản xuất rất nhanh chóng, tiện lợi. Ngoài ra, phần mềm còn có các tính năng khác như quản lý việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; lưu lịch sử canh tác trong quá khứ bằng hình ảnh và video; thống kê các dữ liệu liên quan đến quá trình sản xuất, tích hợp sàn thương mại điện tử FaceFarm và có thể kết nối đến các trang thương mại điện tử khác…
Đến nay, ứng dụng nhật ký sản xuất điện tử FaceFarm đã được triển khai tới các hộ thành viên và hộ liên kết với HTX. Thông qua ứng dụng này, thông tin chi tiết về thửa đất trồng chè và nhật ký sản xuất của các hộ trồng chè tham gia ứng dụng được hiển thị trên Google Maps đã giúp cho quản trị HTX thuận lợi trong khâu quản lý sản xuất; tính minh bạch trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm cụ thể. Từ đó, khách hàng khi sử dụng điện thoại thông minh quét mã QR có thể biết được thông tin về sản phẩm bằng hình ảnh, video, thuyết minh…
Không dừng lại ở đó, HTX cón bán các sản phẩm trà online qua trang web, các kênh thương mại điện tử, mạng xã hội. Mỗi sản phẩm trà đều được in nhãn và mã QR trước khi đưa ra thị trường. Nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật và chuyển đổi số trong sản xuất chè, năng suất, sản lượng chè của các hộ tham gia liên kết sản xuất luôn bảo đảm ổn định, giá trị sản phẩm của HTX được nâng cao (với giá bán 200-300 nghìn đồng/kg chè búp khô). Thu nhập của người làm chè vì thế đã tăng từ 10-20%. Hằng năm, HTX tạo việc làm tại chỗ cho 30-40 lao động thời vụ tham gia chăm sóc, thu hái chè…
Tương tự, tại huyện Phú Bình, nhiều HTX cũng đã ứng dụng công nghệ số vào sản xuất cây trồng an toàn. Đến nay, toàn huyện có 23 cơ sở được cấp chứng nhận VietGAP, trong đó có 100ha lúa được cấp mã vùng trồng và chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, tập trung tại một số xã: Úc Kỳ, Tân Đức, Xuân Phương…
Ông Nguyễn Tá, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh: Việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất trồng trọt không chỉ nâng cao hiệu quả công tác quản lý sản xuất, năng suất lao động mà còn giúp tăng cường kết nối giữa người sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt là góp phần làm giảm thiểu biến đối khí hậu cũng như tiết kiệm thời gian và nguồn lực cho người dân.

Sử dụng thiết bị bay không người lái để phun phân bón lá hữu cơ PAN cho cánh đồng lúa nếp Thầu dầu ở xã Úc Kỳ (Phú Bình).
Thúc đẩy chuyển đổi số
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực nhưng không thể phủ nhận chuyển đổi số trong nông nghiệp nói chung, trong sản xuất trồng trọt nói riêng ở Thái Nguyên vẫn gặp không ít khó khăn do nhận thức của người dân còn hạn chế, hạ tầng công nghệ thông tin ở một số xã miền núi, vùng cao chưa đáp ứng yêu cầu.
Ứng công nghệ số trong nông nghiệp là xu hướng tất yếu, mở ra cơ hội lớn cho nông dân Thái Nguyên nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận thị trường hiện đại và hội nhập sâu rộng vào nền nông nghiệp số.
Bởi vậy, để thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, thời gian tới, các cấp, ngành chức năng nên tổ chức nhiều lớp tập huấn về chuyển đổi số cho nông dân; truyền đạt kiến thức về truy xuất nguồn gốc, bán hàng cho bà con trên sàn giao dịch điện tử. Đồng hành với bà con thực hiện chuyển đổi số trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, an toàn.
Cùng với đó là tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nhằm tăng nhanh năng suất, chất lượng, giá trị góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường. Nhất là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp an toàn, GAP, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát thải các-bon thấp.
Đặc biệt là tiếp tục thực hiện chuyển đổi số lĩnh vực nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; quản trị và quản lý nông nghiệp dựa trên công nghệ số, ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý giám sát, truy xuất nguồn gốc nông sản, chuỗi cung ứng sản phẩm; phát triển thương mại điện tử trong nông nghiệp, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, có thế mạnh của tỉnh, như chè, cây ăn quả (na, nhãn, bưởi), gỗ, quế...
Trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 5.900ha chè, 200ha rau đạt tiêu chuẩn VietGAP; 120ha chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam. Hầu hết diện tích cây trồng đạt chứng nhận tiêu chuẩn an toàn đều được ứng dụng công nghệ số trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (như tưới nước tự động, ghi chép nhật ký sản xuất, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm...).