BÁNH ÍT
(Pentagonal Patty)
1. Giới thiệu

Bánh ít hầu như có mặt trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam
và ở mỗi miền lại có hình dạng và mùi vị khác nhau. Nếu như bánh ở miền Bắc có
hình vuông, ở miền Trung có hình trụ dài thì ở miền Nam bánh lại có hình tháp.
Đây là một loại bánh ngon không thể thiếu trong các ngày giỗ, trước để cúng ông
bà, tổ tiên; sau là món quà dân dã, thân thương để biếu cho người ăn giỗ về làm
quà. Bánh thường được làm trong các dịp Tết cổ truyền, đám tiệc…Nổi tiếng nhất
là bánh ít lá gai Bình Định với bột nếp trong, màu đen và mùi đặc trưng của lá
gai non.
Có rất nhiều cách lý giải khác nhau về tên bánh. Theo tích
xưa, người con gái út của vua Hùng Vương thứ 6 đã làm ra loại bánh mới để dâng
lên vua cha trong dịp Tết đầu năm. Chiếc bánh là một sự kết hợp độc đáo giữa
hình thức gói của bánh chưng và nguyên liệu của bánh dầy, tên “bánh ít” là dân
gian quen gọi thân mật thứ bánh do nàng Út làm ra. Cách lý giải thứ hai là dựa
vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới ở Bình Định, chiếc bánh do tự
tay cô dâu làm ra là món quà “của ít lòng nhiều” thể hiện tấm lòng hiếu thảo của
cô gái để cúng tổ tiên và biếu cha mẹ. Cũng có người giải thích rằng loại bánh
này có nhiều “biến thể”: loại gói lá, loại để trần, nặn cao, nặn dẹt, loại
trắng, xanh, đen, loại nhân dừa, nhân đậu... nên khi làm bánh, người ta thường
làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ thứ kia, đủ vẻ đủ hình, do đó mà thành bánh ít.
Bánh ít là loại bánh đơn sơ, mộc mạc được làm từ gạo nếp,
thường chọn loại nếp mới, thơm, độ dẻo vừa. Người ta cũng có thể thay thế nếp
bằng bột khoai mì, bột củ năng…khẩu vị có khác hơn nhưng càng làm cho bánh thêm
phong phú và đa dạng. Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải có sự khéo léo,
nhìn chiếc bánh người ta có thể biết được độ ngon của bánh và kỹ thuật gói. Bánh
ít ngon là bánh dẻo nhưng không dính răng, cắn một miếng đầu lưỡi sẽ thấy ngay
vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của dừa hoặc vị bùi của đậu và mùi
thơm của lá chuối, tất cả hòa quyện tạo một cảm giác khoái khẩu và rất đặc sắc.
Trải qua nhiều thời đại, cùng với sự phát triển của nền văn
hoá ẩm thực Việt Nam, bánh ít đã đi vào đời sống nhân dân và trở thành một nghề
truyền thống, một nét đẹp văn hóa cần lưu truyền và gìn giữ.
2. Quy trình sản xuất

3. Giải thích quy trình
Bột bánh:
Nguyên liệu: cấu trúc bánh được hình thành nhờ vào khả năng
tạo dẻo của thành phần amylopectin trong tinh bột nếp sau khi được gia nhiệt hồ
hóa. Do đó để làm được bánh ít đạt chất lượng phải chọn loại bột nếp mới, thơm,
trắng và không bị lẫn tạp chất sẽ cho bánh dẻo và không bị cứng khi để lâu.
Nhào trộn: cho nước ấm từ từ vào khối bột nếp (khoảng 400g
bột) và nhào trộn đến khi khối bột đạt độ dẻo thích hợp. Quá trình nhào trộn kỹ
giúp các phân tử tinh bột liên kết chặt chẽ với nhau. Tinh bột có các nhóm
hydroxyl giúp chúng có khả năng hydrate hóa và tập hợp lại đồ sộ hơn tạo khối
bột đặc, dính và dẻo. Có thể lấy ¼ khối bột luộc trong nước sôi khoảng 5 phút
nhằm hồ hóa sơ bộ rồi tiến hành nhào trộn chung với phần bột còn lại, do quá
trình hồ hóa sẽ làm tăng khả năng kết dính của tinh bột.

Trong quá trình nhào trộn nên cho thêm một ít dầu ăn hay nước
cốt dừa để khối bột không bị dính và làm tăng vị béo cho bánh. Ngoài ra có thể
cho thêm một ít muối và dung dịch đường để tạo vị cho bánh. Đường cũng có tác
dụng làm tăng độ trong của bột. Khối bột sau khi nhào trộn không được khô quá mà
cần có độ nhão để dễ định hình cho bánh sau này.
Nhân bánh: Nhân bánh phổ biến là nhân dừa hay nhân
đậu.
Nhân dừa: Nguyên liệu chủ yếu gồm có dừa khô, đậu phộng và
mè. Chọn loại dừa không quá già (gọi là dừa rám) nếu không nhân bánh khi ăn sẽ
bị khô. Dừa được nạo lấy phần cơm màu trắng. Đậu phộng và mè rang vàng, tách vỏ
và giã nhỏ nhưng không quá nát.

Hòa tan đường cát trắng vào nước trong chảo (có thể theo tỷ
lệ 300g đường trong 100ml nước hoặc sử dụng lượng đường tùy theo độ ngọt mong
muốn). Đun nóng chảo trên bếp, khuấy đều cho đường hòa tan hoàn toàn. Tiếp cho
khoảng 400g dừa nạo vào chảo, trộn đều đến khi các các miếng cơm dừa ráo, dẻo
tay (khoảng 5 phút). Trong quá trình đảo trộn nên để lửa nhỏ tránh cháy khét làm
sẫm màu do xảy ra hiện tượng caramen đường. Bổ sung một ít muối để tạo vị cho
nhân bánh. Muốn nhân có độ sánh, người ta có thể bổ sung một ít bột năng hòa tan
trong nước. Bổ sung đậu phộng và mè, trộn đều. Sau khi lấy chảo khỏi bếp, trộn
đều nhân với đậu phộng và mè, để nguội và cho thêm vani.
Khi hỗn hợp nhân nguội, vo thành từng viên tròn đường kính 2
– 2,5cm, khi vo phải nén chặt không để nhân không bị bể.

Nhân đậu xanh: Nguyên liệu chính là đậu xanh. Đậu xanh
(khoảng 200g) được ngâm, rửa trong nước khoảng 6–9 giờ cho hạt đậu hút nước, mềm
giúp quá trình nấu mau hơn. Trong quá trình ngâm nên cho thêm một ít muối vào
nước ngâm để hạn chế vi khuẩn lên men làm chua đậu. Sau khi ngâm, loại bỏ vỏ đậu
bằng nước lạnh và nấu đậu với nước cốt dừa (nước cốt dừa chuẩn bị theo tỉ lệ
khoảng 200g dừa trong 500ml nước, nhào trộn và vắt lấy nước. Lượng nước này chia
làm 2 lần nhào) và một ít muối đến khi đậu chín mềm thành khối paste dẽo mịn.
Nhân bánh ngon khi đậu không quá khô hay quá nhão và không có
mùi khê khét. Lượng nước thêm vào khi nấu nhân không được quá nhiều tránh làm
nhão khối paste khó nắn thành viên. Ngược lại nếu lượng nước quá ít sẽ làm đậu
bị sống hay quá khô. Trong quá trình nấu nên sử dụng lửa nhỏ tránh đậu bị khét
làm ảnh hưởng đến chất lượng bánh ít thành phẩm. Để nguội khối đậu rồi vo thành
từng viên nhỏ đường kính 2 – 2,5 cm.

Tạo hình bánh:
Lấy một khối bột đủ để bao được phần nhân. Ep bột thành miếng
mỏng và cho một viên nhân vào giữa miếng bột. Túm các góc bột sao cho miếng bột
có thể bao kín hết phần nhân bánh phía trong rồi vo tròn. Có thể áo bên ngoài
viên bột một lớp dầu ăn hay nước cốt dừa để bánh khỏi dính vào lá.
Gói bánh:
Lá chuối tươi mang phơi nắng khoảng 10 phút sao cho lá hơi
héo để tránh lá bị rách khi gói bánh. Có thể trụng lá chuối trong nước sôi, sau
đó để ráo và lau khô (cách làm này nhanh hơn phơi nắng và màu lá xanh đều). Lá
được xé thành những miếng vuông khoảng 25 x 25cm để dễ gói bánh.
Thoa một lớp dầu ăn lên lá, cuộn lá thành hình phễu, cho viên
bột vào giữa và gấp mí lá lại (đáy gấp lại theo hình tam giác). Dùng thêm 1
miếng lá chuối đặt gói bột lên giữa lá. Gấp đôi miếng lá theo hình chéo của hình
vuông, vuốt nhẹ đường gấp cho có nếp. Gấp tiếp mí lá mỗi bên vào 3 lần cho sát.
Gấp mí lá còn lại vào trong. Xem hình minh họa dưới đây.

Ngoài ra có thể gói bánh theo các kiểu sau:

Đặc tính của lá chuối là giữ hơi và mùi thơm, làm kín bánh,
hạn chế sự xâm nhập của vi sinh vật nên bánh giữ được một thời gian lâu.
Hấp: Xếp tất cả bánh vào xửng và hấp khoảng từ 1-2 giờ
cho bánh chín.

Trong quá trình hấp, bánh có thể đạt đến nhiệt độ 60-70oC làm
tăng khả năng hấp thụ nước của các hạt tinh bột, kết quả là làm cho các hạt tinh
bột trương nở và có khả năng tạo gel, đồng thời quá trình hồ hóa còn làm cho bột
bánh trở nên trong hơn.
Thành phẩm:
Bánh chín được lấy ra để nguội. Khi đó các phân tử tinh bột
đã được hồ hóa sẽ tương tác với nhau bằng các liên kết hydro và sắp xếp lại một
cách có trật tự để tạo thành gel tinh bột có cấu trúc mạng ba chiều tạo cho bánh
có một cấu trúc vừa dai vừa mềm. Tuy nhiên nếu để bánh trong một thời gian quá
dài, hệ gel này sẽ co lại và tách nước hay còn gọi là hiện tượng thoái hóa của
gel tinh bột làm bánh khô và trở nên cứng.

Khi lột bỏ lớp lá bên ngoài, quan sát kỹ chiếc bánh ít có 2
phần với 2 màu sắc không lẫn lộn với nhau, bên ngoài là lớp áo bột nguyên chất
bọc phần nhân ở bên trong.
4. Giá trị dinh dưỡng
Bánh ít là một loại bánh cung cấp năng lượng cao do được làm
từ bột nếp và có chứa lượng chất béo khá cao từ cơm dừa hay từ phần dầu ăn sử
dụng khi xào nhân, áo bột,… Trung bình bánh ít cung cấp trên dưới 150 calo/cái,
trong đó khoảng 40% năng lượng từ chất béo. Thành phần vitamin, chất khoáng,
chất xơ… của bánh tương đối ít. Bánh nhân ngọt còn có thêm năng lượng từ đường.
Ngoài ra, các nguyên liệu làm bánh như nếp, lá gai hay lá
mướp, lá mút mật, đậu xanh, đường cát, dừa, mè, lá chuối, … đều là những nguyên
liệu có dược tính rất tốt cho sức khỏe. |